Thứ Sáu, 31 tháng 8, 2012

Những món ăn ít người biết đến trong ẩm thực Việt

MNCT - Các món ăn của Việt Nam có nhiều món ăn dân dã, đơn sơ và tuyệt ngon, nhưng không còn được chế biến nữa, thế nhưng chúng vẫn còn đâu đó trong ký ức nhiều người...

Có nhiều lý do khiến nhiều một món ăn bị thất truyền: do không phù hợp với hoàn cảnh sống hiện tại, do cách chế biến quá cầu kỳ... Sau đây là một số món ăn ngày nay không còn phổ biến nữa, hoặc nếu còn thì chỉ có thể tìm thấy ở vài địa phương.

Đồn đột hầm gà ác

Đồn đột tức hải sâm là một loại nguyên liệu quí.

Ngày xưa dân đi biển bắt được đồn đột chủ yếu chỉ để cống nạp cho vua quan, ngày nay người ta có thể thưởng thức đồn đột biển ở các nhà hàng sang trọng, đây là món ăn đắt tiền.

Đồn đột có hình dạng giống như con giun lớn, chiều dài từ 20 đến 30cm, nhiều màu sắc, xẻ bụng đồn đột rửa sạch cát, luộc chín rồi chế biến ngay hoặc phơi khô để dành.

Trong món Đồn đột hầm gà ác, người ta dùng cả con đồn đột, nhồi vào bụng gà ác, sau đó hầm nhừ. Món này đến nay ít được chế biến có lẽ vì lượng dinh dưỡng quá cao. Việc phối hợp cả hai loại nguyên liệu quí và bổ dưỡng với nhau không phù hợp với kiến thức dinh dưỡng hiện đại.

Cơm nếp mật


Là món ăn của vùng nông thôn Nam Định, nay hầu như không còn thấy nữa. Người ta nấu gạo nếp cho chín, sau đó trộn mật mía và gừng vào. Cơm nếp nấu chín cho ra dĩa, có màu nâu của mật mía, rất thơm ngon. Khi nguội, cơm nếp mật chặt lại, có thể cắt thành miếng để ăn.

Bánh chông


Bánh chông là đặc sản của xã Giao Tiến, huyện Xuân thủy, Nam Định, bánh thường được làm vào dịp Tết. Người ta nấu nếp với gấc. Khi xôi chín thì trộn đường vào sau đó giã nhuyễn xôi. Ép xôi lại rồi cắt thành miếng hình thoi như cây chông, hai đầu nhọn, cỡ ngón tay. Các miếng bánh này được phơi khô, sau đó rang giòn. Bánh giòn, có màu hồng cam rất đẹp, mùi thơm ngon, vị ngọt. Món bánh này đến nay tại Nam Định cũng không còn mấy phổ biến, chỉ còn vài gia đình làm để cung cấp theo đơn đặt hàng hoặc mang lên thành phố biếu cho người thân làm quà cho đỡ nhớ quê.

Bánh ngải


Đây là một loại bánh của người Nùng. Bánh ngải thuộc món bánh chay, tuy được làm từ gạo nếp nhưng rất dễ ăn, mát, không ngấy. Bánh có mùi thơm, dẻo của gạo nếp, vị của lá ngải, vị ngọt của đường và mùi thơm lừng của hạt kê hòa quyện vào nhau. Nếu ai đã từng ăn một lần sẽ không quên mùi vị của loại bánh dân dã này. Ngoài ra, bánh ngải còn có khả năng chữa được một số bệnh vì lá cây ngải cứu (còn gọi là ngải diệp) có vị đắng, cay, tính hơi ấm có tác dụng điều hòa khí huyết, trừ hàn thấp, an thai, cầm máu…

Bánh khổ


Là món bánh của người Mường dùng làm lễ vật cho ngày cưới. Bánh được làm đơn giản, từ nếp ngâm, nấu thành xôi, sau đó đem giã nhuyễn. Vắt tròn bánh bằng quả hồng, xếp lên mặt lá chuối, hong gió qua một đêm cho khô. Khi ăn bánh khổ, đem chiên vàng, hoặc nướng, bánh sẽ phồng và dẻo thơm trở lại.

Bánh bảy lửa


Là loại bánh đặc biệt có cách làm công phu, thường thấy vào dịp Tết ở các tỉnh miền Trung như Bình Định, Quảng Nam, Quảng Ngãi. Bánh được làm qua nhiều công đoạn, từ rang nếp, rang mè, giã nếp thành bột rồi tiếp tục rang, chế biến bảy lần qua lửa nên mới có tên là bánh Bảy lửa.

Bánh được rang và sấy kỹ nhiều lần nên có thể để dành được đến ba, bốn tháng. Khi ăn, bánh giòn tan. Bánh này được nhiều người dân ở các địa phương kể trên ưa thích. Tuy nhiên vì chế biến quá công phu, mất nhiều thời gian nên hầu như hiện nay không còn thấy loại bánh này trên thị trường nữa.

Bánh nghệ


Bánh nghệ là loại bánh dùng làm món ăn chơi, ăn lỡ bữa của người miền Nam, đặc biệt là vùng Sài Gòn, Chợ Lớn. Bánh làm từ hai phần bột gạo nếp và một phần bột gạo tẻ khuấy chín rồi se thành sợi.

Bột bánh hấp chín, cho vào tô nhỏ, cho thêm giá, rau sống, mỡ hành, bì và thịt nướng. Món bánh này ăn chung với nước mắm chua ngọt pha bằng nước dừa tươi. Tuy nhiên bánh nghệ đến nay không còn thấy nữa.

Mắm nhum

Nhum là loại hải sản sống ở những gành đá ven bờ biển từ Bình Định đến Quảng Ngãi.

Nhum là loại hải sản sống ở những gành đá ven bờ biển từ Bình Định đến Quảng Ngãi. Thịt nhum có thể vắt chanh vào ăn sống, hoặc kho, trộn trứng chưng cách thủỵ… Đặc biệt nhất là món mắm nhum sền sệt, có màu mầu đỏ đục, thơm lựng, từng là đặc sản tiến vua xưa của người dân Quảng Ngãi.

Để làm mắm, người ta cho thịt nhum vào chum sành, rắc một ít muối lên trên, rồi đem phơi nắng từ 10 đến 15 ngày. Mắm nhum ăn với bún tươi rất ngon, nhưng ngon nhất là chấm thịt heo ba rọi kèm rau sống cuốn bánh tráng.

Nhum là loại hải sản hiếm, vì vậy ngày naym khi đến các vùng biển Nha Trang, Phú Quốc, Bình Định… người ta có thể thưởng thức món nhum sống hoặc nhum làm gỏi, còn mắm nhum thì hầu như không còn thấy.

Tiến sĩ Nguyễn Thị Diệu Thảo
Theo PNO

Top 5 món nem nổi tiếng trong ẩm thực Việt

MNCT - Người Việt thích ăn món nem. Từ Bắc chí Nam, hầu như vùng miền nào cũng có món nem đặc sản của riêng mình. Hầu như không có một công thức cố định cho món nem, bởi tùy thức ăn và khẩu vị của từng địa phương, từng vùng miền mà hình thành nên món nem.

1. Nem tai Hà Nội

Tai chộn thính, nguyên liệu chính cua món nem tai

Ở Hà Nội, Nem tai được coi là một món ăn vô cùng độc đáo, món ăn này được dùng rất phổ biến trong gia đình, trong các bàn tiệc hay chỉ đơn giản trong những bữa lai dai.

Có người nói nem tai xuất xứ từ Nam Định, được du nhập vào Hà Nội bởi một người con gái, khi lấy chồng ở Ước Lễ (Hà Tây). Đã kết hợp nem tai gia truyền với chả giò và nem chua, hai món đặc sản nổi tiếng của làng Ước Lễ để trở thành một món ăn thơm ngon và có vị rất lạ.

Nem tai Hà Nội

Món nem được người Hà Nội theo dạng cuốn. Một ít lá sung, lá đinh lăng, dải lên bánh đa nem, cho nem tai vào, kèm với một vài miếng sung muối chua, cộng với một lát giò lụa hoặc nem chua. Sau đó cuốn kỹ thành một miếng nhỏ vừa tay cầm, khách ăn sẽ chấm miếng nem tai cuốn vào nước mắm dấm cay nhẹ.

Cảm giác giòn sần sật từ những miếng nem tai, quyện với vị thanh mát, ngon lành từ rau sống, lá sung, chấm đẫm nước mắm được pha chế dìu dịu khiến ai ăn cũng phải nức lòng.

2. Nem mắm Giao Thủy


Nem nắm Giao Thủy được làm từ bì và thịt lợn trộn đều với thính gạo lẫn với các phụ gia khác như tỏi và nước mắm…, rồi nắm trong lá sung và lá đinh lăng.

Nem nắm Giao Thủy (Nam Định) nổi tiếng từ thời nhà Trần. Tương truyền rằng, khi các vua Trần chọn phủ Thiên Trường làm nơi ngự, các làng nghề đã được hình thành. Món nem nắm Giao Thủy cũng được xem là đặc sản dâng vua thời đó.

Để thưởng thức cuốn nem nắm vào chiếc lá sung sần sần, thêm ít rau thơm rồi nhón qua bát nước mắm Sa Châu (xã Giao Châu, huyện Giao Thủy). Thứ nước mắm này cũng rất nổi tiếng, nó được làm theo cách cổ truyền, cá được nấu chín tự nhiên, không qua tẩm ướp, sau chừng 6 tháng mới mang ra vắt lấy nước mắm nguyên chất. Sau đó, mắm lại được phơi nắng nóng rồi cho vào vại sành chôn xuống đất thêm 6 tháng nữa. Vậy là phải mất ngót 1 năm, nước mắm Sa Châu mới được mang ra để ăn với nem nắm.

3. Nem chua Thanh Hóa


Nem chua được xem là món đặc sản của xứ Thanh. Ai đi qua cũng phải nếm thử hương vị lạ của những chiếc nem xinh xắn. Người dân xứ Thanh vào Nam ra Bắc, dù bận trăm công nghìn việc, dù mang vác nặng nề cũng cố đem vài chục chiếc để cho người nhà hoặc biếu người thân.

Nem chua Thanh Hóa được làm từ thịt nạc xay nhuyễn; bì lợn luộc chín, cạo thật sạch, lạng mỏng bỏ vào máy cán thành sợi, ngắn chừng 3cm; thính là gạo tẻ rang vàng, xay nhỏ mịn. Gia giảm còn có men, tiêu bắc, muối tinh và bột ngọt vừa đủ... gói trong lá chuối rồi buộc bằng lạt. Tuỳ theo thời tiết có thể ăn nem, mùa hè thì độ 5 tiếng đã có nem ăn, mùa đông thì 1 đến 2 ngày.

Nem chua Thanh Hoá vừa ngon, vừa rẻ nhưng có điều rất lạ và hay là có thể làm đồ nhắm, cũng có khi ăn với cơm. Tiện hơn cả là ở đâu ta cũng có thể nhấm nháp hương vị hấp dẫn của nó.

4. Nem lụi Huế


Đến Huế mà không ăn nem lụi thì quả là một điều thiếu sót. Rất đơn giản trong cách chế biến, thế nhưng nem lụi đã khiến biết bao nhiêu thực khách phải “ngẩn ngơ lòng” khi thưởng thức. Nguyên liệu để làm nên món nem lụi rất đơn giản: thịt heo đã quết nhuyễn trộn với bì, mỡ heo thái hạt lựu ướp cùng muối, tiêu đường, thính. Sau đó người ta lụi hỗn hợp này vào từng chiếc đũa tre nhỏ và nướng trên bếp than. Mùi vị thơm nức của thịt bốc lên trên từng chiếc đũa tre khiến thực khách “không cầm lòng” nổi.

Nước chấm của món nem lụi này được pha chế rất độc đáo. Đầu tiên, để làm nước chấm, người ta xay nhuyễn đậu phộng, cho thêm một chút nước mắm rồi đun trên bếp thành một hỗn hợp sền sệt giống như tương. Người ta còn cho thêm vào đó gan heo, thịt heo băm nhuyễn để món nước chấm được đậm đà và nhiều hương vị hơn.

Người ta thường ăn kèm nem lụi với bánh tráng, rau thơm, khế chua, chuối xanh, sung… tùy theo khẩu vị mỗi người. Bày nem lụi ra đĩa, bạn sẽ thấy một món ăn đủ màu sắc: màu vàng ươm của miếng thịt đã được nướng, màu xanh của rau, màu nâu của nước chấm, và thêm chút đỏ tươi của vài miếng ớt thái nhuyễn.

Cầm miếng bánh tráng trên tay, lần lượt xếp rau thơm, khế chua, chuối xanh rồi tới nem lụi, cuốn vào và bắt đầu thưởng thức. Món ăn là sự kết hợp hài hòa của các hương vị: mùi thơm của miếng thịt đã nướng vàng, chút cay cay của tiêu và ớt, độ ngọt và bùi bùi của nước chấm sền sệt, vị tươi mát từ rau xanh... Thật ngọt ngào biết bao món nem lụi xứ Huế.

5. Nem nướng Nha Trang


Đặc sản Nha Trang gồm rất nhiều món gắn với hương vị biển, nhưng cũng có những món nghe qua chẳng có gì dính dáng đến biển, trong đó có nem nướng.

Món nem nướng Nha Trang được làm từ nạc đùi loại thật tươi, vừa mới xả thì khi làm nem mới ngon, dẽ và thơm. Thịt vừa xẻ được quết mịn, ướp thêm ít gia vị đậm đà, xiên que rồi nướng trên bếp than hồng cho thịt nem vàng ươm. Sau đó, cuốn với miếng bánh tráng mỏng dai, trong suốt cùng chả ram chiên vàng rộm; ăn kèm với các loại rau sống, rau thơm, khế chua, chuối chát... và chấm với nước tương được chế biến từ hơn 20 loại gia vị theo bí quyết gia truyền.

Hiện nay, tại địa bàn Nha Trang có khoảng hai chục tiệm bán nem phục vụ vào buổi chiều đến tối như các quán nem nằm trên đường Nguyễn Thị Minh Khai, Lê Lợi, Hoàng Văn Thụ, Lê Thành Phương, Trần Đường..., nhưng đông khách hơn cả là quán Đặng Văn Quyên và Ngọc Tiên.

Thu Huyền
YeuDuLich.vn

Top 10 món cơm nổi tiếng trong ẩm thực Việt

MNCT - Món cơm với người Việt không được coi là một loại thức ăn mà thường coi là món chủ lực để ăn no trong các bữa ăn. Tùy vùng miền có rất nhiều loại cơm và biến thể của cách nấu.

1. Cơm gà – Hội An


Chưa ăn cơm gà xem như chưa tới Hội An. Cách nói có phần cường điệu ấy có lẽ xuất phát từ lòng tự hào khi đề cập đến cơm gà – một thứ hương vị quê nhà bình dị, khó quên của người dân phố Hội.

Cơm gà đơn giản là cơm nấu ăn với gà luộc nhưng cái đặc sắc là những yếu tố trong món ăn bình dị này như cơm, gà, nước chấm, đồ chua ăn kèm đều mang hương vị, phong cách ẩm thực rất riêng của miền Trung.

Cái đặc biệt của món cơm gà xứ Hội bắt nguồn từ nét riêng của cách chế biến thịt gà theo “gu” miền Trung, nghĩa là gà xé nhỏ, bóp thấm với hành tây, rau răm và gia vị. Cái khéo của người làm là khiến miếng thịt mang thơm thơm, cay cay nhưng vẫn không bở thịt và mất mùi gà.

Nước dùng gà được dùng để nấu cơm nên hạt cơm không trắng mà ánh một sắc vàng nhẹ, căng tròn, ngọt lịm vị gà. Với phong cách nhỏ nhẹ của người miền Trung, món cơm gà được bày trong chiếc đĩa nhỏ chỉ đủ làm lưng bụng thực khách. Đĩa cơm thường trang trí thêm ít lá bạc hà, rau răm, những lát hành tây trắng nõn, tương ớt đỏ tươi, muối tiêu lấm chấm, ăn kèm với loại tương ớt sền sệt, cay xé lưỡi theo khẩu vị của người địa phương.

Có một cách khác làm món cơm gà, nhưng người vùng Tam Kỳ - Quảng Nam hay Đà Nẵng mới thường chế biến theo cách này. Thịt gà không xé sợi mà chặt thành từng miếng vừa phải, vàng ươm. Gà không chỉ luộc, đôi khi còn được chiên giòn.

2. Cơm Ghẹ - Phú Quốc


Cơm ghẹ là món ăn ngon, giàu chất đạm, vị lạ đặc trưng rất ấn tượng và cũng rất khó quên khi đặt chân đến Phú Quốc.

Thành phần chính của cơm xào ghẹ Phú Quốc là cơm trắng, thịt ghẹ bóc sẵn, hành tây xắt lát mỏng, tỏi, ít tương cà vàng, dầu ăn. Thịt ghẹ khoảng 300g bỏ vào chảo xào sau khi phi tỏi vàng cùng với hành tây, cơm trắng khoảng một ký cho năm người dùng. Tương cà giúp cho món ăn có màu sắc đẹp, nêm gia vị vào để có hương vị ngon, khi chế biến cũng thể dùng hạt nêm Knorr thay thế cho gia vị.

Cơm xào ghẹ Phú Quốc khi chế biến có màu vàng ươm cũa tơ vàng óng ánh rất đẹp. Cơm khi xào xong được ăn kèm với dưa leo xắt nhuyễn, rau tươi, cà chua xắt lát dùng với nước mắm pha chế sẵn.

3. Cơm hến – Huế


Người Việt Nam bao giờ cũng ăn cơm nóng, còn cơm hến của xứ Huế lại được chế biến từ cơm nguội đánh tơi nhưng cơm hến được nấu từ thứ gạo ngon nên mềm dẻo. Ăn cơm hến tưởng như là một món trộn với những nguyên liệu phong phú mà đơn giản như cơm nguội cùng hến luộc, nước hến, hoa chuối thái rối, khế chua, rau răm...

Cơm hến hòa cùng vị bùi của đậu phộng, vị cay của ớt, vị đậm đà của mắm ruốc, tạo nên một món thanh đạm.

Cơm hến là món ăn cay, cay chảy nước mắt, cay toát mồ hôi. Cơm của cơm hến là cơm nguội, mùi ruốc mặn nồng thơm nức mũi, vị chua thanh của khế, mùi thơm ngây ngất của rau thơm, chuối bắp, bạc hà, vị ngọt đằm thắm của nước hến, béo ngậy của tóp mỡ, vị cay đến xé lưỡi, đến phỏng miệng của ớt tương... Người ăn cơm hến đôi lúc vẫn chưa vừa lòng với món ớt tương cay nồng sẵn có, còn cắn thêm trái ớt tươi" rồi xì xụp, xuýt xoa hít hà cho nước mắt nhỏ giọt, mới thấm thía được cái ngon của cơm hến.

4. Cơm Âm phủ - Huế


Cơm Âm phủ là một món ăn có từ lâu đời của đất cố đô, rất đậm “chất Huế” gồm nhiều nguyên liệu tạo thành, đa màu đa sắc nhưng lại rất bình dân. Cái tên nghe rất lạ, tạo cho thực khách vẻ “sờ sợ” nhưng lại là một món ngon độc đáo trong nghệ thuật ẩm thực Huế.

Cơm Âm phủ gồm các nguyên liệu như: cơm trắng, tôm, thịt nướng, chả lụa, trứng tráng, rau thơm, dưa leo, đồ chua... , cách làm cũng khá công phu. Cơm là thành phần chính nên việc chọn gạo để nấu là rất quan trọng. Để cơm ngon phải chọn gạo thơm, có chất lượng tốt.

Cơm Âm phủ có trong bốn mùa. Nếu có dịp đến thành phố Festival Huế, đắm chìm trong khung cảnh thơ mộng của nơi đây, du khách hãy thưởng thức món cơm đậm chất Huế này.

5. Cơm Tấm – Sài Gòn


Cơm tấm vốn là món đặc sản truyền thống của người dân miền Nam mà đặc biệt là người Sài Gòn. Xưa kia, người dân thường sử dụng món ăn này trong bữa sáng, vừa đơn giản mà thuận tiện. Nhưng nay, món cơm tấm độc đáo này được dùng trong nhiều cửa hàng, quán xá, nhà hàng, khách sạn như một món cơm chính trong bữa trưa, tối…

Cơm tấm là món ăn độc đáo bởi lẽ đây thứ cơm được nấu từ những hạt gạo vỡ nhỏ, vụn. Những mảnh hạt gạo vỡ được sàng riêng và nấu chín lên bằng bếp củi.

Cơm tấm có hương vị thật nhẹ nhàng nhưng rất đặc biệt và hấp dẫn người thưởng thức. Một đĩa cơm tấm ăn kèm với sườn, bì, chả, trứng và nước mắm sẽ khiến cho các vị giác của bạn phải trầm trồ bởi vị ngon mà không ngấy.

6. Cơm cháy - Ninh Bình


Tương truyền, cơm cháy Ninh Bình được hình thành hơn 100 năm (từ cuối thế kỷ 19), do một chàng thanh niên người Ninh Bình tên là Hoàng Thăng học được và phát triển từ một món ăn của người Hoa, sau đó mở rất nhiều tiệm ăn ở Hà Nội lẫn Ninh Bình. Từ đó món cơm cháy được lưu truyền, phát triển và trở thành một đặc sản của vùng đất Cố đô.

Để làm món cơm cháy thơm ngon, người Ninh Bình dùng gạo nếp hương, chọn hạt gạo tròn và trong để nấu. Khi nấu phải nấu bằng than củi và dùng nồi gang thì mới có miếng cơm cháy vàng thơm, vừa dẻo vừa ngon. Cháy lấy ra từ nồi mang ra phơi từ hai đến ba nắng. Cơm cháy cần được bảo quản nơi kho dáo, tuyệt đối tránh ẩm mốc, lúc gần ăn thì mới mang ra chiên giòn. Nếu chiên để qua buổi hay qua ngày thì cơm đều bị hôi dầu, ăn sẽ không ngon.

Ăn cùng cơm cháy có thể là thịt bò, tim, cật lợn xào với các loại rau như hành tây, nấm rơm, cà rốt và cà chua… ăn đến đâu, chan lên miếng cơm cháy đến đó. Miếng cơm kêu xèo xèo, bốc khói, toả ra mùi thơm. Khi ăn, cơm giòn tơi, chứa nhiều hương vị của món ăn thập cẩm nóng sốt mà đậm đà.

7. Cơm Dừa – Bến Tre


Xứ dừa Bến Tre không chỉ nổi tiếng với các sản phẩm kẹo dừa, rượu dừa, qua bàn tay tinh tế của người dân nơi đây biến món cơm dân dã hằng ngày trở thành một đặc sản lạ lẫm với người ăn bằng món cơm dừa.

Nấu cơm dừa cầu kỳ. Để được món cơm dừa ngon phải mất gần hai giờ đồng hồ. Những trái dừa xiêm được cắt ngang một phần trên đầu quả dừa để trút nước ra và dùng miếng cắt đó như cái nắp để đậy lại. Gạo ngon vo sạch bằng nước rồi sau đó vo lại nước cuối cùng bằng nước dừa, để ráo nước. Cho gạo vào trong trái dừa rồi đổ lượng nước dừa vào vừa đủ, đậy nắp lại cho kín.

Cơm dừa nấu với nước dừa được hấp cách thủy trong nồi nên hương thơm, vị ngọt đều kết đọng lại trong mỗi hạt cơm. Khi cơm chín hơi ngả màu vàng nhạt do bị thấm hơi dầu từ cơm quả dừa. Cơm dừa ăn có vị beo béo nên ăn nóng mới ngon.

Cái thú khi ăn cơm dừa là ăn trực tiếp trên trái dừa, không phải ăn bằng chén. Với trái dừa xinh xắn trắng ngà, mùi thơm của dừa hòa quyện cùng làn khói bốc lên làm cho tất cả các giác quan đều hưởng trọn vẹn hương vị của món ăn.

8. Cơm lam


Cơm lam là loại cơm được làm từ gạo (thường là gạo nếp) cùng một số nguyên liệu khác, cho vào ống tre, giang, nứa v.v. và nướng chín trên lửa.

Cơm lam bỏ trong những ống tre, đốt trực tiếp trên lửa, khi ăn chẻ bỏ lớp cháy đen bên ngoài. Cơm lam ăn ngon, lạ miệng, hương vị khác hẳn cơm thường, chỉ cần bỏ ống cơm ra đó thấy mùi thơm rất hấp dẫn. Bẻ miếng cơm lam, chấm muối vừng hoặc muối lạc cho vào miệng, ta sẽ thấy ngon, thơm, dẻo, rất đậm đà, ngoài hương thơm của gạo nếp còn thoảng hương vị thơm thơm của nứa rừng qua lửa.

Cơm Lam là món cơm đặc trưng của các dân tộc vùng Tây Bắc Việt Nam, Tây Nguyên.

9. Cơm niêu đập


Theo văn hóa của người Việt cho rằng nồi đất là nồi nấu ăn ngon nhất. Gạo Tám mà nấu bằng nồi đồng hoặc bằng các thứ nồi khác đều không thể có hương vị như nấu bằng niêu đất.

Cái niêu đất nung nâu sẫm be bé, miệng hơi khum to hơn tô canh một chút đậy nắp kín với đôi đũa cả gác một bên. Ăn cơm đập ở các nhà hàng, khi niêu cơm được bê lên, người phục vụ mới gõ nhẹ chiếc búa nhỏ vào niêu, những mảnh đất nung vỡ vụn rơi xuống đất còn lại trên tay là ổ cơm chín mịn màng ở giữa nhưng chung quanh là một lớp cháy ròn đều vàng mỏng.

Thường, cơm niêu được ăn kèm với cá kho tộ, cà pháo chấm mắm tôm, canh cua mồng tơi….

10. Cơm nị


Cơm nị một món ăn truyền thống của người Chăm, Châu Giang, An Giang. Cơm nị thường là gạo nấu với sữa nhưng có người lại thích thêm nho khô vào để tăng thêm khẩu vị.

Người Chăm hay ăn Cơm nị với cà púalà món ăn được chế biến từ thịt bò rất độc đáo. Hai món ăn này thường bổ sung cho nhau tạo nên hương vị độc đáo và cầu kỳ mang khẩu vị người Chăm.

Cơm nị - cà púa mang mùi ngọt béo của sữa, vị bùi của đậu phộng, vị mặn ngọt của thịt bò cùng với vị cay xè của ớt, vị ngọt của nho khô làm ngẩn ngơ lòng thực khách. Tất cả đem lại cho người ăn một cảm giác thơm ngon, thật lạ miệng, no bụng mà chẳng thấy ngán.

Thu Huyền
YeuDuLich.vn

Những món chay ngon cho mùa Vu Lan

MNCT - Nói đến ăn chay, nhiều người mường tượng tới một thực đơn rất nghèo nàn và khô khan; hoặc là một bữa chay giả mặn đầy thịt đầy cá cố làm cho thật giống. Hoàn toàn không cần thế. Món chay tự bản thân nó có cái ngon riêng và hương vị riêng.

Những món ăn chay thanh tịnh không chỉ giúp thay đổi khẩu vị, mà còn rất tốt cho sức khỏe. Dưới đây là 10 món chay rất dễ làm để bạn đổi vị cho người thân trong gia đình.

1. Chả đậu xanh


Để chế biến chả đỗ, trước hết đậu xanh phải ngâm nước, đãi sạch vỏ rồi cho vào nấu chín. Khi đậu đã chín, cho đậu vào cối và dùng chầy tán nhuyễn đậu, chế thêm chút nước để đậu không bị rời rồi đổ ra tô cho bột sắn khô vào đánh, trộn đều tay, cho chút muối, chút đường, chút tiêu và hành lá thái nhỏ vào trộn đều. Rồi nặn thành những miếng nhỏ mỏng chiên vàng.

2. Lẩu nấm


Lẩu được xem là món ăn phù hợp sở thích của nhiều người bởi món luôn dùng nóng, lại rất dễ ăn. Món lẩu chay thường dùng những nguyên liệu từ các loại nấm: nấm kim châm, nấm đùi gà, nấm rơm, nấm bào ngư… cùng các loại rau củ quả xanh tươi như: cà rốt, cải thảo, bông hẹ…

3. Tempura – củ quả chiên giòn


Tempura là một món ẩm thực của Nhật Bản gồm các loại hải sản, rau, củ tẩm bột mì rán ngập trong dầu. Tuy nhiên để biến tempura thành món chay thì bạn dùng các loại rau củ quả tẩm bột mì hòa chung với nước, vừng trắng rồi chiên giòn. Củ quả để chiên tempura rất đa dạng, bạn có thể chiên dứa thái mỏng, hoa lơ, ngô non, thậm chí cá tím thái khoanh tròn mỏng chiên cũng thơm ngon vô cùng. Món củ quả chiên ròn này bạn chỉ cần dùng nước chấm magi.

4. Cháo nấm


Không chỉ là món ăn ngon, các loại nấm còn có tác dụng tăng cường sức đề kháng cơ thể, chống lão hóa, làm giảm nguy cơ mắc các bệnh về tim mạch, giúp giải độc và bảo vệ tế bào gan nữa. Một món ăn bổ dưỡng từ nấm bạn có thể làm cho gia đình mình là món cháo nấm chay.

5. Cà tím xào


Món cà tím xào với những miếng cà ngọt thơm mùi hành tạo nên sự hấp dẫn đặc biệt cho món ăn này. Cà tím xào vừa mềm vừa ngọt sẽ cho bạn một bữa ăn vừa nhẹ bụng vừa ngon.

6. Canh chua chay


Nguyên liệu nấu món cay chua chay vô cùng đơn giản, bạn chỉ cần: miếng đậu hủ non trắng, nửa quả dứa, măng tươi, cà chua, me hay sấu, giá đỗ, ớt, nấm rơm và mùi tầu. Món canh chay này có mùi vị chua, ngọt, thơm, rất đậm đà nhưng rất dễ nấu và rất dễ ăn.

7. Cà ri chay


Cà ri là một món ăn quen thuộc trong những dịp cúng quải, giỗ chạp của người dân Nam Bộ. Mùa chay không thể dùng gà, vịt, dê, bò... bạn có thể nấu chay hoàn toàn khi dùng Khoai lang, khoai môn, xả cây cắt khúc, đậu rán, xả bằm, nấm rơm, nước cốt dừa, bột cà ri... Chắc chắn bạn sẽ vẫn có món cà ri ngon lành ăn cùng bánh mì hoặc bún.

8. Đậu hủ kho tương


Các món kho rất phổ biến trong những bữa cơm chay bởi có vị mằn mặn, thơm từ các nguyên liệu như đậu hủ, tương hạt… Bạn có thể dùng cùng với cơm trắng ăn rất ngon miệng.

9. Cơm chiên Dương Châu


Dù ăn chay, hay ăn mặn, món cơm sẽ không thể thiếu trong bữa ăn của người Việt. Thường món cơm chay ngoài việc dùng đậu hủ, người ta còn dùng thêm các loại như đậu Hà Lan, nấm rơm, củ cà rốt… Chính sự hòa trộn giữa những nguyên liệu này sẽ giúp cho bạn khi thưởng thức món ăn sẽ không có cảm giác ngán.

10. Xôi dừa


Đối với người ăn mặn, xôi được xem là món ăn thông dụng, được dùng trong các bữa ăn sáng, trưa, hay chập tối… Tuy nhiên, ngày nay, người ăn chay có thể đổi món cho mình để tìm những món ăn đa dạng hơn và xôi dừa ngào cũng sẽ góp phần làm cho thực đơn ăn chay thêm phong phú cho mỗi người. Món có hương thơm đặc trưng với những hạt nếp mềm, dẻo hòa quyện cùng hương thơm từ các nguyên liệu của dừa ngào… sẽ mang đến cho bạn một cảm giác thật ngon miệng.

Bạch Dương
Theo Yeu Du Lịch

Bánh gai Tứ Trụ thắm đượm tình quê

MNCT - Đất nước Việt Nam có muôn nghìn hoa lá, cây trái khác nhau và cũng có vô vàn loại bánh khác nhau. Hoa quả bánh trái cũng phong phú diệu kỳ như thiên nhiên vậy. Trong số đó có loại bánh gai thường được làm ở nhiều nơi, nhưng thơm ngon mang đậm hương vị quê hương, người khắp vùng gần xa ai cũng khen ngợi, được ăn một lần sẽ nhớ mãi đến già là bánh gai làng Mía, xã Tứ Trụ.

Bánh gai Tứ Trụ cùng với chè Sánh, chè Lược và cá rô Đầm Sét đã tạo nên thứ đặc sản của vùng đất Thọ Xuân. Bánh gai thường được làm để thết đãi khách sau mỗi lần giỗ tết, đình đám. Sau khi ăn cỗ người ta mang các loại bánh ra để mời khách “tráng miệng”, thời phong kiến mỗi khi có việc làng, việc phe, nhà nào sang phải có sáu loại bánh tráng miệng: Bánh khoai, bánh cốm, bánh gai, bánh nhãn, bánh sắn bột lọc, bánh trắng. Bánh gai còn để cúng tiến trong các ngày lễ tết, ngày hội, ngày giỗ húy nhật của thành hoàng, đặc biệt là ngày “hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi".

Bánh gai làm rất công phu, kỳ công ở tất cả các công đoạn. Đòi hỏi người làm bánh phải tỉ mẩn và tinh tế, có những thao tác phải thành thạo, điêu luyện như một thứ gia truyền. Lá gai được thu hái tận trong rừng hoặc trồng ở bãi bồi ven sông Chu hái về, rồi tước nhặt bỏ phần cuống lá, gân lá, xơ lá, đem phơi cho thật kỳ khô, gói lại để trong chum. Thường khi xưa đến ngày giỗ chạp, rằm hay tết mới đem ra làm bánh. Lá gai khô đem ngâm nước, rửa cho thật sạch rồi bó thành từng bó đổ cho ngập nước đem luộc thật kỹ. Vớt ra tiếp tục rửa sạch rồi lại thay nước tiếp tục luộc, thời gian luộc của hai lần chừng 24 tiếng, xong vắt khô kiệt để cho không còn nước, bỏ vào cối đại giã cho kỳ nhuyễn, giã đến khi nào lấy hai đầu ngón tay xe thấy mát mịn mới được. Cái mát mịn mềm mại như da thịt. Công việc này thường giao cho các chàng trai cùng các cô gái để họ vừa nói chuyện vừa giã sao cho đừng sốt ruột. Không ít nam thanh, nữ tú tâm đầu ý hợp kết duyên chồng vợ từ mùa làm bánh gai. Lá gai giã kỹ bao nhiêu thì bánh ngon hấp dẫn bấy nhiêu. Bây giờ để bớt khó nhọc và để sản xuất được thật nhiều người ta đưa lá vào ép cho kiệt nước rồi đem nghiền. Cách làm tân tiến này đỡ phần khó nhọc được cái lợi về số lượng nhưng giảm về chất lượng.

Để bánh được thơm ngon phải có nhiều lá gai, vì lá gai là nguyên liệu chính nên gọi bánh gai là vì vậy. Gọi là bánh gai Tứ Trụ vì nó do người làng Mía làm và được sản xuất tại làng Mía, xã Tứ Trụ - thuộc tổng Diên Hào - một làng cổ có hàng nghìn năm bên bờ sông Chu nay thuộc xã Thọ Diên, huyện Thọ Xuân. Làng Mía cách trung tâm huyện Thọ Xuân 9 km về phía Tây, thuộc hữu ngạn sông Chu. Chếch về phía Tây Bắc của xã chừng 1,5 km đường chim bay, về phía tả ngạn là khu di tích lịch sử Lam Kinh, nơi phát tích của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn quê hương của Bình Định vương Lê Lợi và của nhiều bậc khai quốc công thần triều Lê. Hiện nay xã có 10 thôn (cách chia theo đội sản xuất của HTX Nông nghiệp thời bao cấp), đến giờ mặc dù ranh giới làng không còn rõ nữa, không còn những mái đình cây đa để níu giữ chân người, nhưng trong tiềm thức người dân ở đây vẫn rạch ròi có 4 làng: làng Mau, làng Mía, làng Quần Đội, làng Quần Lai. Tứ Trụ chỉ là một thị tứ nhỏ nằm giữa làng Mau và làng Mía. Tứ Trụ thường là nơi bày bán, lưu chuyển đi khắp nơi, từ vùng đất này đến vùng đất khác sản phẩm bánh gai của người làng Mía. Đó cũng là một lý do để người đời quen gọi là bánh gai Tứ Trụ.

Bánh gai nhân đậu xanh

Nguyên liệu đi cùng với lá gai là gạo nếp, thứ bột gạo nếp được xay bằng cối đá bắc hoặc cho vào cối đá giã nhỏ rồi dùng rây bột gạn đi những hạt to. Thứ gạo để làm bột tốt nhất là nếp nương hoặc nếp hoa cau. Nhìn cảnh rây bột kỹ càng, chầm chậm, bột mịn màng trắng nõn nà theo mặt rây nhỏ li ti rơi xuống mát mẻ như mưa xuân, trắng như sữa mới thấy hết được tấm lòng thảo thơm của người làng Mía. Phần không thể thiếu được để chiếc bánh thơm ngon là nhân bánh. Nhân bánh được làm từ đậu xanh, dầu chuối, đường và thịt lợn nạc. Đậu xanh đem cà vỡ đôi vỡ ba, ngâm tróc vỏ đãi sạch, nấu như nấu cơm hoặc đồ lên, không được nấu nhão, và nhớ rắc vào nồi đậu vài hạt muối khi đậu vừa sôi. Khi đậu chín, cho vào cối giã cùng với đường sao cho đường và đậu nhỏ mịn thấm đều vào nhau. Đây là thành phần chính của nhân bánh; để cho nhân có mùi vị đặc trưng, ngọt thanh, cần có thịt lợn nạc (khoảng từ 200 đến 300 gam cho 100 nhân), một thìa cà phê nước mắm ngon và một ít dầu chuối. Dầu chuối cho đủ độ, nếu nhiều sẽ bị đắng, cho ít quá thì không dậy mùi. Bột lá gai, bột nếp, trộn cùng mật mía cho thật kỹ đều rồi ủ trong một đêm. Người thạo nghề nếu thấy mật loãng thường phải đem cô lại và phải để cho mật nguội tự nhiên mới ngâm ủ. Bột đa thành phần tiếp tục đem vào cối giã cho kỳ dẻo sau đó đem luyện sao cho kết dính, hòa thấm vào nhau (khâu này để nhấn mạnh người ta gọi là khâu luyện hay lèn bánh đều đúng). Khâu giã bánh góp phần quyết định chất lượng của bánh. Thường khi xưa giã bằng cối đại hai người nhún và một người trực ở cối đá để đảo trộn cho thật đều. Khi giã phải giã liên tục cho thật đều nhịp chày, trộn cho thật kỹ đến khi nào bột nhuyễn, dẻo quánh. Người giã khéo léo nhịp nhàng bao nhiêu thì người trực ở cối để trộn càng khéo léo bấy nhiêu. Phải trộn thật đều từ trên xuống dưới và từ dưới lên trên, từ phải qua trái sao cho không bị lõi. Khi luyện đã đến độ thử kiểm tra bằng cách xoa đầu ngón tay xem bột mịn chưa, nếu bột mịn mềm dẻo có màu đen bóng, cầm hai đầu kéo mà không đứt hoặc nắm bột bỏ lên lòng bàn tay thấy bột cứ từ từ xệ ra thì mới được. Khâu này bây giờ cũng được dùng bằng máy có lắp mô tơ chạy với vận tốc lớn. Đây là công đoạn khó, đòi hỏi phải có kinh nghiệm thực tiễn. Công đoạn này nếu xử lý không tốt sẽ dẫn đến tình trạng hoặc là nhão quá hoặc là cứng quá, không thành bánh.

Những người làm nghề có kinh nghiệm pha chế mật “non” hoặc “già” còn tùy thuộc vào thời tiết nữa. Những người thợ giàu kinh nghiệm thường lấy mắt mà nhận biết. Thứ bột này là phần “thịt” của bánh. Lấy bột này đem nặn từng cục tròn rồi dàn mỏng trên lòng bàn tay, lấy nhân cho vào giữa, vê lại sao cho nhân nằm gọn giữa lòng chiếc bánh. Khi đã xoa cho bánh tròn thì lăn bánh trên mâm đồng đã rải đều hạt vừng. Vừng làm bánh phải được đãi sạch, phơi khô, cà nhẹ sao cho tróc lớp lụa ngoài, tránh làm vỡ hạt vừng. Vừng không thể thiếu vì tác dụng của vừng không chỉ tạo cho bánh gai ngọt, bùi, béo, mà còn làm cho bánh dễ bóc. Vừng sống khi gặp nhiệt độ cao, dầu vừng chảy ra, đủ độ bôi trơn vỏ bánh chứ không làm ướt bánh. Dùng lá chuối khô vuốt phẳng gói lại cho khéo thành từng chiếc bánh vuông vắn, quấn một chiếc lạt giang bên ngoài. Gói bánh cũng đòi hỏi nghệ thuật. Gói bánh gai nhất thiết phải bằng lá chuối khô, nhà cầu kỳ phải lên rừng lấy cho được loại lá chuối tiêu già thì bánh mới thật thơm ngon. Lá chuối khô là lá già khô một cách tự nhiên, chứ không phải lấy lá chuối đem phơi nắng hoặc hong cho khô. Lá chuối phải được đệm nhiều lượt một phần để tạo mùi thơm đặc trưng của bánh, một phần để cho bánh định hình. Đây cũng là cách tốt nhất để bảo vệ bánh được lâu và giữ được hương vị. Người thưởng thức thấy bánh nhiều lá mà hiểu rằng họ độn lá vào cho bánh to để chiêu khách, nói vậy là phụ công người làm bánh nhiều lắm.

Bánh gai - nước trà

Sau cùng là phần hấp bánh (người làng Mía gọi là đồ bánh) cũng là công đoạn đòi hỏi thực tiễn. Thứ thực tiễn được trả giá bằng quyết tâm sống chết với nghề. Bánh gai hấp không chín, đem hấp lại sẽ không được nữa. Người thạo nghề muốn biết bánh chín hay chưa, chỉ cần kiểm tra bằng mắt và ngửi mùi thơm là đủ. Thử bằng cách bóc bánh nhanh thấy mặt bánh rỗ đều là bánh đã chín. Thời gian để bánh chín thường được căn cứ vào số lượng bánh đồ trong chõ to hay nhỏ, ít hay nhiều, nhiệt độ cao hay thấp. Bánh chín được vớt ra nia rồi mở ra (mở chứ không phải bóc) cho ráo, để cho bánh nguội tự nhiên và ráo nước. Công đoạn này còn phải làm động tác vuốt lại bánh để bánh nhẵn và đẹp (bánh có hình gộp rùa là đẹp). Khi bánh nguội hẳn dùng lạt giang đã nhuộm phẩm đỏ thay cho lạt khi luộc, gói từng bó 5 chiếc một cho vuông vắn, rồi xếp hai bó loại 5 chiếc lại thành 10 chiếc để tiện lợi khi dùng hoặc khi trao đổi mua bán.

Người làm bánh đã rất công phu, người thưởng thức bánh cũng phải sành điệu. Thường ăn bánh sau khi hấp khoảng 10 tiếng đồng hồ. Lần lượt nhẹ nhàng bóc hết các lần lá bên ngoài, ở lần lá trong cùng, người ăn phải xé nhỏ từng sợi lá, kiên trì cho đến khi còn lại một phần lá, ta cuốn lại cầm bánh ăn, có như vậy bánh mới không dính vào tay, ăn đến đâu xé và bóc đến đấy cho đến lúc ăn hết. Các cụ ta khi xưa dạy “học ăn học nói, học gói học mở” vận vào với bánh gai thật đúng là vậy. Khi ăn người ta ăn từ tốn nhấm nháp, thưởng thức; phần có nhiều nhân bánh người ta nhai chậm, miệng khép, như vậy hương vị của bánh mới có điều kiện lan tỏa, tác động vào khứu giác, tạo cảm giác thú vị khi thưởng thức.

Bánh gai thành phẩm phải mịn và thơm ngon, phải có được vị dẻo thơm của lá gai, của gạo nếp và có được hương thơm ngất ngây của dầu chuối, hương vị tự nhiên khó tả của lá chuối khô, vị ngọt mát của mật mía, mùi thơm thanh dịu của đậu, vị béo ngậy của thịt, mùi thơm thoảng của vừng, ăn một miếng mà dư vị còn đọng nơi đầu môi, chót lưỡi mới đạt.


Giờ thì bánh gai đã theo chân người du lịch đi xa tận chót mũi Cà Mau, tít tắp địa đầu Móng Cái, nhiều khi còn vượt biên sang nước bạn, có mặt trên nhiều tờ báo, có trong danh mục ẩm thực xứ Thanh. Về tham quan khu di tích lịch sử Lam Kinh ra về không thể nào không mua dăm chục bánh gai về làm quà. Người dân làng Mía yêu cái nghề làm bánh, vinh dự tự hào với nghề và biết ơn vị tổ nghề đã giúp dân làng xóa đói từ những ngày xa xưa, giờ đang góp phần giúp họ xóa nghèo, giữ lấy hương vị đậm đà bản sắc quê hương, bản sắc dân tộc.

Theo Yêu Du Lịch

Thơm ngon, giản dị với bánh hẹ

MNCT - Bánh hẹ Sài Gòn ngày nay có thêm tôm, thịt đậm đà, lại có lớp trứng gà bao bọc bên ngoài.


Có nguồn gốc từ người Hoa, bánh hẹ được bán nhiều ở khu vực quận 5, quận 10 (TP.HCM), nơi tập trung rất đông người Hoa sinh sống và làm việc. Bạn có thể dễ dàng bắt gặp loại bánh này trên những chiếc xe gần giống như xe bột chiên khi đi qua các con đường, góc phố tại đây.

Ngoài phần nhân là lá hẹ, người ta còn biến tấu với phần nhân là củ cải, củ sắn thái sợi với thịt nạc.


Chiếc bánh hẹ đơn giản được làm từ hai nguyên liệu chính là bột gạo và lá hẹ. Ngày nay, người ta làm bánh hẹ còn cho vào thêm một ít tôm thịt để chiếc bánh thêm thơm ngon và đậm đà. Bánh hẹ được làm khá đơn giản, đầu tiên người bán pha một ít nước sôi vào bột gạo, dùng tay nhồi cho đến khi bột dẻo, dai và mịn là được.

Ngày nay, để tăng thêm phần hấp dẫn cho món ăn, người bán đã biến tấu với một lớp trứng gà bao bọc bên ngoài,đem lại cảm giác ngon miệng cho người ăn.

Lá hẹ được rửa sạch, thái miếng vừa ăn, thịt nạc thái hạt lựu, trộn đều lá hẹ với thịt nạc, xào chín và nêm gia vị vừa ăn. Bột sau khi nhồi được chia thành từng phần nhỏ, cán mỏng, cho phần nhân vào giữa, ép kín lại theo hình tròn rồi đem hấp chín. Bánh sau khi hấp chín được chiên giòn vàng với trứng gà.

Ngoài loại bánh có nhân, loại bánh hẹ không nhân cũng hấp dẫn người ăn. Lá hẹ cắt khúc, trộn chung với bột gạo, đem hấp chín và chiên giòn.

Ăn bánh hẹ không thể thiếu chén nước chấm được pha chua cay, đem lại vị đậm đà cho món ăn.

Không chỉ khách Việt mà cả khách nước ngoài cũng rất thích thú với món ăn này.

Theo MNSG

Một số loại xúc xích nổi tiếng của Đức

MNCT - Ẩm thực Đức nổi tiếng với các loại xúc xích đa dạng, đã vượt khỏi biên giới nước này để trở thành một trong những món ăn hàng đầu thế giới. PNO xin giới thiệu một số loại xúc xích nổi tiếng của Đức.

 Đa dạng các loại xúc xích ngon


1. Bratwurst


Bratwurst là một loại xúc xích được làm từ thịt heo và thịt bò băm nhỏ. Bratwurst thường được nướng và ăn kèm với mù tạc, dùng chung với bánh mì.

2. Rostbratwurst


Xúc xích Rostbratwurst có chiều dài chỉ bằng ngón tay út. Thành phần của nó cũng giống như xúc xích Bratwurst, nhưng có thêm mùi vị cây kinh giới. Loại xúc xích này được nướng và dùng chung với bắp cải chua Đức, khoai tây.

3. Blutwurst


Đây là loại xúc xích khô, làm từ thịt heo, thỉnh thoảng chế biến bằng thịt bò, cừu, bê hoặc gà. Người ta thường ăn xúc xích Blutwurst chung với bột yến mạch.

4. Frankfurter - Bockwurst


Loại xúc xích này được sản xuất đầu tiên tại Frankfurt và được làm từ thịt bê trộn lẫn với thịt heo và một số loại thịt khác, cùng với muối, hồ tiêu và ớt bột. Người ta thường luộc Frankfurter - Bockwurst và dùng kèm với bia, mù tạc.

5. Bregenwurst


Sản xuất tại vùng Lower Saxony và được làm từ thịt heo, dạ dày heo hoặc có thể thêm óc bò. Nó thường được hầm nhừ và dùng chung với súp rau.

6. Knackwurst


Xúc xích này được chế biến từ nhiều loại thịt bò, hình dạng ngắn và dầy, trong thành phần gia vị có gừng. Người ta thường chế biến loại xúc xích này bằng cách hun khói, sau đó ăn với salad bắp cải chua và khoai tây

7. Landjager


Đây là một loại xúc xích khô gần giống như xúc xích Italia. Nó được làm từ thịt bò, heo, mỡ heo, đường và nhiều gia vị. Nó được sấy khô. Xúc xích này không cần ướp lạnh.

8. Leberwurst


Đây là loại xúc xích được làm từ thịt heo với một chút gan heo.

9. Leberkase


Loại xúc xích này có xuất xứ từ Bavaria. Nó được chế biến từ thịt bò, heo, củ hành, một số loại gia vị và cây kinh giới, sau đó được bỏ trong lò nướng và dùng chung với bánh mì.

10. Teewurst


Đây là loại xúc xích sống làm từ thịt heo, thịt heo muối và thịt bò, được xông khói. Người ta dùng chung nó với bánh mì sandwich và thường ăn khi uống trà. Hương vị của nó nhẹ và có vị chua.

11. Gelbwurst


Loại xúc xích này còn được gọi là xúc xích vàng, do được chế biến từ nghệ. Ngoài ra còn có các gia vị như chanh, gừng, vỏ nhục đậu khấu… Xúc xích này có thể được làm từ hịt heo, thịt lợn muối, thịt bò hoặc thịt gà.

12. Weisswurst


Đây là loại xúc xích truyền thống của miền Nam nước Đức, được làm từ thịt bê và thịt lợn muối, có hương vị của cây mùi tây, củ hành, chanh… Loại xúc xích này được luộc, dùng chung với mù tạc, bia và bánh quy. 

Theo Văn hóa Đức